Tác động của các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới đối với lộ trình tự do hóa thương mại dịch vụ của Việt Nam
TS
TS.
Nguyễn Hữu Hoàng
Phòng Nghiên cứu khoa học Tòa án - Học viện Tòa án
Tóm tắt:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Chủ
động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng,
định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực
hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”.
Việt Nam đã đạt được một chặng
đường dài trong nỗ lực tự do hóa các ngành dịch vụ trong khu vực. Kể từ khi Các
Hiệp định tự do thương mại (FTA) thế hệ mới xuất hiện, lộ trình tự do hóa thương
mại dịch vụ của Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể. Các Hiệp định đa phương
thế hệ mới mà Việt Nam tham gia gần đây điển hình có thể kể đến là Hiệp định
RCEP, Hiệp định CPTPP. Nghiên cứu này đánh giá một cách tổng quan các tác động
và vai trò của các Hiệp định này đối với lộ trình tự do hoá thương mại dịch vụ
của Việt Nam.
Từ
khóa:
cam kết, thương mại dịch vụ, AFAS, WTO, CPTPP, RCEP, ATISA.
1.
Nội
dung các cam kết về dịch vụ trong một số FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia
1.1.
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
Ngày
12/11/2018 Quốc hội ban hành Nghị quyết số 72/2018/QH14 phê chuẩn Hiệp định Đối
tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cùng các văn kiện liên
quan, đánh dấu một bước tiến mới trong tiến trình hội nhập thương mại quốc tế
của Việt Nam. Trong CPTPP thì các vấn đề liên quan đến dịch vụ được quy định tại
Chương 10 (thương mại dịch vụ xuyên biên giới), Chương 9 (đầu tư) và Chương 11
(Dịch vụ tài chính). Ngày 14/06/2019, Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số
734/QĐ-TTg Chỉ định các cơ quan đầu mối để triển khai thực hiện Hiệp định CPTPP,
trong đó Chương 10 thương mại dịch vụ xuyên biên giới chỉ định Bộ Công thương
thực hiện. Chương 9 (đầu tư) do Bộ Kế hoạch đầu tư (đối với các quy định của
Chương) và Bộ Tư pháp (đối với nội dung giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và
Nhà nước-ISDS) chủ trì. Chương 11 (Dịch vụ tài chính) do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và Bộ Tài chính (đối với các nội dung liên quan đến bảo hiểm và chứng khoán)
chủ trì.
Có
hai điểm mới chính trong các cam kết của CPTPP về dịch vụ so với WTO và những
FTA về dịch vụ mà Việt Nam đã tham gia. Thứ nhất, khác với phương thức trong
WTO, CPTPP thực hiện mở cửa dịch vụ theo phương thức “Chọn – Bỏ” áp dụng đối với
3 Phương thức cung cấp dịch vụ 1, 2 và 3 (không bao gồm Phương thức 4). Toàn bộ
các lĩnh vực và cam kết bảo lưu về dịch vụ và đầu tư được đưa vào 02 Danh mục
các biện pháp không tương thích (NCM – Non conforming measures) (Phụ lục I và II
của Hiệp định). Riêng dịch vụ Tài chính được đàm phán riêng và có Danh mục các
biện pháp không tương thích riêng (Phụ lục III của Hiệp định). Thứ hai,
cam kết về dịch vụ trong CPTPP còn có điểm khác biệt nữa so với WTO đó là
cách phân loại dịch vụ. CPTPP sử dụng cả Hệ thống phân loại CPC và Hệ thống Phân
loại Công nghiệp Tiêu chuẩn Quốc tế của UNCTAD về tất cả các hoạt động kinh tế
(ISIC). Chính vì vậy, một số lĩnh vực dịch vụ được cam kết trong CPTPP không
được đính kèm theo một mã CPC nhất định như trong WTO.
1.2.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)
Trong
chương Thương mại dịch vụ, RCEP đưa ra cả hai phương thức tiếp cận chọn – cho và
chọn – bỏ, phụ thuộc vào việc lựa chọn của các nước thành viên, với các nghĩa vụ
hiện diện địa phương, hội đồng quản trị, yêu cầu về hoạt động (chỉ áp dụng đối
với các nước theo phương thức chọn – bỏ), đồng thời vẫn có các nghĩa vụ đối xử
tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Các quốc gia lựa chọn phương thức chọn – cho
phải lựa chọn một số phân ngành áp dụng nguyên tắc MFN tự động và nguyên tắc đơn
phương tự do hóa chỉ tiến không lùi (ratchet), đồng thời sẽ phải chuyển đổi sang
phương thức tiếp cận chọn – bỏ sau 6 năm kể từ thời điểm Hiệp định có hiệu lực,
với mức độ mở cửa thị trường không thấp hơn mức độ cam kết trong biểu cam kết
chọn – cho.
Việt
Nam lựa chọn phương thức tiếp cận chọn – cho, với mức độ mở cửa thị trường về cơ
bản tương đương với mức cam kết trong khuôn khổ ASEAN và không cao hơn pháp luật
hiện hành. Thêm vào đó, Việt Nam lựa chọn 6 phân ngành đã tự do hóa hoàn toàn để
áp dụng nguyên tắc MFN tự động và nguyên tắc đơn phương tự do hóa. Hiệp định có
quy định quá trình chuyển đổi từ biểu cam kết chọn-cho sang chọn-bỏ không yêu
cầu cải thiện mức cam kết (bao gồm cả số lượng phân ngành áp dụng nguyên tắc MFN
tự động), nhằm đảm bảo các dịch vụ nhạy cảm như tài chính, viễn thông tránh được
khả năng phải áp dụng nghĩa vụ MFN tự động.
1.3. Hiệp định thương mại dịch vụ ASEAN (ATISA)
Ngày
18/10/2021 Chính phủ ban hành Nghị quyết 131/NQ-CP phê duyệt Hiệp định Thương
mại Dịch vụ ASEAN (ATISA). Về quy tắc, ATISA thiết lập các khuôn khổ thực thi
những cam kết tự do hóa từ AFAS, giảm bớt các rào cản quy định phân biệt đối xử
với những nhà cung cấp dịch vụ, đồng thời đưa ra nền tảng pháp luật vững chắc và
cơ chế minh bạch hơn cho thị trường dịch vụ trong khu vực. Về mở cửa các thị
trường dịch vụ, ATISA áp dụng phương pháp tiếp cận mở cửa theo kiểu “chọn – bỏ”.
Cụ thể, trong Hiệp định này, các bên cam kết mở cửa tất cả các ngành dịch vụ
ngoại trừ các ngành/phân ngành được liệt kê trong Danh sách các biện pháp không
tương thích - NCM (Danh sách thiết lập riêng theo cam kết của từng nước thành
viên ASEAN)[3].
Đây là cách tiếp cận mới so với phương pháp chọn – cho của AFAS, vốn chỉ cho
phép mở cửa những ngành dịch vụ đã được liệt kê rõ ràng trong Biểu cam kết.
Trong Nghị quyết 131/NQ-CP Chính phủ yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối
hợp với các bộ, cơ quan liên quan tổ chức triển khai thực hiện Hiệp định ATISA
sau khi có hiệu lực. Các bộ, ngành liên quan phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư
xây dựng Danh mục các biện pháp không tương thích trên cơ sở Gói cam kết dịch vụ
thứ 10 (Hiệp định Khung ASEAN về dịch vụ) bảo đảm quyền và lợi ích của Việt Nam
và các cam kết của Việt Nam với ASEAN; chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung các
văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện Hiệp định ATISA.
Mục
đích chính của việc ký kết hiệp định ATISA là để thúc đẩy tự do hóa thương mại
dịch vụ trong ASEAN. Hiệp định này được đặt hi vọng thay thế cho AFAS và đặt nền
tảng mới cho việc thúc đẩy thương mại dịch vụ và nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp trong cộng đồng ASEAN[4].
ATISA dự định sẽ thiết lập các khuôn khổ thực thi các cam kết tự do hóa từ AFAS,
giảm bớt các rào cản quy định phân biết đối xử với các nhà cung cấp dịch vụ,
đồng thời đưa ra nền tảng vững chắc và cơ chế minh bạch hơn cho thị trường dịch
vụ trong khu vực. Tuy nhiên, ATISA vẫn chưa phải là văn bản hoàn chỉnh, mà nó là
sự khởi đầu cho việc xác định các nguyên tắc cụ thể trong tương lai. Cũng giống
như AFAS trước đây, sau khi kí kết hiệp định còn có các nghị định thư thi hành
10 gói cam kết sau đó. Thêm vào đó, khi ATISA có hiệu lực không có nghĩa là nó
sẽ thay thế ngay và chấm dứt hoàn toàn AFAS, như điều 36 quy định về việc chuyển
tiếp có liên quan tới AFAS. Vì thế trong thời điểm hiện tại ATISA vẫn chưa thể
thay thế hoàn toàn được các quy định cũ về tự do hóa thương mại.
Do
đó, mặc dù các FTA mới như CPTPP, ATISA có mức độ cam kết mở cửa dịch vụ cao hơn
nhiều so với WTO nhưng điều này không đồng nghĩa với việc tiến trình tự do hóa
thương mại dịch vụ ở Việt Nam sẽ đạt được những bước tiến đáng kể trong thời
gian tới. Phương pháp tiếp cận chọn-bỏ mới được áp dụng tại Việt Nam khi tham
gia các hiệp định này, điều này không có nghĩa là cách tiếp cận mới này hoàn
thiện hơn và hiệu quả hơn phương pháp chọn-bỏ cũ. Việc hoàn thiện và lên lịch
trình Danh sách biện pháp không tương thích của các nước thành viên ASEAN rất
tốn thời gian. Ví dụ đối với Việt Nam là 9 năm, đối với Lào, Myanmar, Campuchia
là 15 năm trong ATISA.
Hơn thế nữa, vẫn còn thiếu các cơ chế kiểm tra, giám sát của ASEAN liên quan đến
thực hiện Danh sách biện pháp không tương thức. Vì thế có thể thấy rằng nhìn
chung các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có phương thức tiếp cận tự do
hóa thương mại đổi mới hơn và hiện đại hơn so với AFAS hay WTO, tuy nhiên hiệu
quả thực tế của nó cần phải được chứng minh theo thời gian.
2.
Tác
động của các FTA thế hệ mới đến tự do hóa thương mại dịch vụ tại Việt Nam
2.1.
Thúc đẩy xu hướng tự do hóa thương mại dịch vụ trong thời kỳ hội nhập
Tự do hóa thương mại được hiểu là một quá trình cải cách với mục đích xóa bỏ dần
các cản trở trong thương mại quốc tế, bao gồm thuế quan và phi thuế quan, được
tiến hành trong mối liên hệ với các chính sách khác trong hệ thống chính sách
kinh tế của chính phủ.
Đối với Việt Nam, trước khi các FTA thế hệ mới xuất hiện thì tiến trình tự do
hóa thương mại trong lĩnh vực dịch vụ từ hơn hai thập kỷ qua gắn liền với tự do
hóa thương mại dịch vụ trong ASEAN.
Trong quá trình thực hiện, Hiệp định Khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) đã đưa ra 10
gói cam kết về dịch vụ với mức độ mở rộng về phạm vi và mức độ cam kết. Tuy
nhiên, điều này không hẳn có nghĩa là tự do hóa được mở rộng hơn vì khi bị ràng
buộc các cam kết có thể bao gồm ít hơn so với thực tế hiện. Ví dụ, một quốc gia
thành viên ASEAN có thể ràng buộc vốn cổ phần nước ngoài của nó giới hạn ở mức
dưới 100 phần trăm trong khi thực tế, 100 phần trăm vốn nước ngoài đã được cho
phép trong tiểu ngành đó. Quan trọng hơn là ASEAN đã hạn chế hơn chính sách
trong lĩnh vực dịch vụ, so với các lĩnh vực khác. Chỉ số hạn chế Dịch vụ thương
mại thế giới (STRI), được dùng để đo mức độ hạn chế chính sách trong dịch vụ,
chỉ ra rằng STRI trung bình cho ASEAN cao hơn 60% so với toàn cầu trung bình vào
năm 2012.
Trong ASEAN, Campuchia, Myanmar và Singapore có nhiều chính sách tự do hơn so
với Indonesia, Philippines và Thái Lan.
Chính vì thế mà các Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới xuất hiện, với mục
tiêu mở rộng các cam kết về dịch vụ, xóa bỏ các rào cản thương mại, tạo ra môi
trường cạnh tranh công bằng, minh bạch cho các nhà đầu tư, cung ứng dịch vụ.
Các
FTA thế hệ mới có ba điểm khác biệt cơ bản so với các FTA truyền thống. Thứ
nhất, các FTA thế hệ mới có mục tiêu tiến tới thiết lập một khu vực thương mại
tự do toàn diện với mức độ tự do hóa “tiệm cận” với trạng thái “thương mại tự do
hoàn toàn” đối với tất cả lĩnh vực trên thi trường như hàng hóa, lao động, dịch
vụ. Bên cạnh đó các vấn đề về rào cản kĩ thuật, giải quyết tranh chấp được thực
hiện với các cơ chế mới, siết chặt và minh bạch hơn[8].
Thứ hai, về phạm vi cam kết, ngoài các lĩnh vực truyền thống như thương mại hàng
hóa và thương mại dịch vụ, các FTA mới còn bao gồm các lĩnh vực phi truyền thống
như các vấn đề về lao động, môi trường, thương mại điện tử. Thứ ba, các FTA thế
hệ mới còn có nhiều quy định về thể chế của các quốc gia thành viên, cụ thể là
những cam kết ảnh hưởng trực tiếp đến thể chế, chính sách pháp luật nội địa[9].
Về
lĩnh vực thương mại dịch vụ, các Hiệp định đa phương thế hệ mới Việt Nam tham
gia gần đây điển hình có thể kể đến là Hiệp định RCEP, Hiệp định CPTPP, và Hiệp
định ATISA. Các Hiệp định này có những điểm kế
thừa GATS và có những đổi mới hơn so với GATS, với hi vọng thay đổi thị trường
dịch vụ ở ASEAN, tiến gần hơn tới mục tiêu cuối cùng của tự do hóa thương mại
dịch vụ là xóa bỏ toàn bộ các rào cản thương mại. Xu hướng chung cho việc lựa
chọn các FTA mới này liên quan đến các yếu tố đổi mới so với các FTA truyền
thống trước đây của ASEAN, tiêu biểu là phương pháp tiếp cận chọn – bỏ (negative
list approach) và cơ chế điều chỉnh chính sách “chỉ tiến không lùi” (ratchet)
Có
hai xu hướng chủ đạo trong việc lập lịch trình các cam kết của tự do hóa lĩnh
vực dịch vụ: Phương pháp chọn – cho (Positive list approach) được sử dụng trong
Các cam kết GATS của WTO và Phương pháp chọn – bỏ (Negative list approach) được
sử dụng chủ yếu bởi Các quốc gia thành viên Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA) và Liên minh châu Âu (EU). Trong WTO thì phương pháp chọn - cho được áp
dụng khi xác định phạm vi cam kết. Theo đó thì các dịch vụ được đưa vào Biểu cam
kết dịch vụ, và bên cam kết chỉ cam kết mở cửa thị trường cho các dịch vụ xuất
hiện trong Biểu cam kết. Với những dịch vụ không xuất hiện trong Biểu cam kết,
bên cam kết không có nghĩa vụ nào cả. Ngược lại thì phương pháp chọn - bỏ là
cách tiếp cận mà khi đó các bên cam kết mở cửa tất cả các ngành dịch vụ ngoại
trừ các ngành/phân ngành được liệt kê trong Danh sách các biện pháp không tương
thích (Danh sách thiết lập riêng theo cam kết của từng nước thành viên ký kết
FTA). Tuy nhiên có thể nói GATS sử dụng một phương pháp kết hợp, chủ đạo là
phương pháp chọn – cho. Phương pháp chọn - bỏ trong GATS được sử dụng khi đưa ra
cam kết đối với các dịch vụ được đưa vào Biểu cam kết. Theo đó, bên cam kết sẽ
liệt kê toàn bộ các biện pháp hạn chế áp dụng cho dịch vụ có liên quan. Ngoài
các biện pháp này, sẽ không áp dụng bất kỳ biện pháp hạn chế nào khác.
Việc
sử dụng phương pháp chọn – bỏ có nguồn gốc từ Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ
(NAFTA) có hiệu lực từ năm 1994 và liên quan đến ba quốc gia ở lục địa Châu Mỹ:
Canada, Mexico và Hoa Kỳ[10].
Phương pháp này sau đó được phổ biến rộng rãi đến các quốc gia khác, bao gồm cả
những quốc gia ở Châu Á và Úc, và một số quốc gia châu Âu đã quen với việc sử
dụng phương pháp chọn – cho, đặc biệt là phương pháp kết hợp kiểu GATS. Trong
các FTA / RTA của họ mở rộng, quốc gia Châu Mỹ khuyến khích đối tác của họ các
nước cũng áp dụng phương pháp chọn – bỏ. Có thể thấy rằng có sự khác biệt lớn về
phương thức sử dụng trong FTA của các quốc gia trong khu vực mậu dịch Châu Á nói
chung là ASEAN nói riêng so với các khu vực mậu dịch khác trên thế giới, điển
hình là khu vực mậu dịch Bắc Mỹ. Trên thực tế, các quốc gia thành viên của AFAS
thực hiện các cam kết dựa trên phương thức chọn – cho giống như trong GATS. Hầu
như các quốc gia thành viên ASEAN trước khi ký kết các FTA thế hệ mới thì chỉ
tham gia các FTA với phương thức chọn – cho.
Mô
hình thỏa thuận với cách tiếp cận chọn – bỏ đầu tiên xuất hiện ở Đông Á và ASEAN
thông qua các FTA / RTA thỏa thuận giữa Singapore và Hoa Kỳ đã đi đến có hiệu
lực từ năm 2003. Singapore cũng thông qua phương pháp này trong FTA giữa
Singapore và Úc. Sau Singapore là các nước Đông Á khác như sau đó là Nhật Bản,
Hàn Quốc, bao gồm cả Úc. Kể từ đó, một số nước đối tác ASEAN đã thông qua các
FTA này. Ví dụ Nhật Bản, Nhật Bản đã áp dụng tiếp cận chọn – bỏ với Chile trong
Hiệp định Nhật Bản-Chile. Hàn Quốc cũng đã sử dụng tiếp cận chọn – bỏ ở Hiệp
định Chile-Hàn Quốc[11].
Có thể thấy được rằng các FTA với phương pháp chọn – bỏ vẫn chưa xuất
hiện nhiều trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN, chủ yếu là các hiệp định song
phương. Phải cho đến thời điểm gần đây khi xu hướng ký kết các Hiệp định tự do
thương mại thế hệ mới xuất hiện thì các FTA đa phương về dịch vụ sử dụng phương
pháp tiếp cận chọn – bỏ mới được ký kết như Hiệp định RCEP, Hiệp định CPTPP, và
đặc biệt là Hiệp định ATISA. Các Hiệp định này thu hút cả các quốc gia ASEAN
đang phát triển như Singapore, Malaysia, Brunei và Việt Nam.
Trong
các Hiệp định tự do thương mại dịch vụ thì có hai cơ chế chính điều chỉnh chính
sách là cơ chế “giữ nguyên hiện trạng” (standstill) và cơ chế “chỉ tiến không
lùi” (ratchet). Nguyên tắc “giữ nguyên hiện trạng” (standstill) là nguyên tắc
cho phép các nước được quyền sửa đổi nội dung bảo lưu nhưng với điều kiện việc
sửa đổi không được kém thuận lợi hơn nội dung đã được bảo lưu trong Phụ lục. Còn
nguyên tắc “chỉ tiến, không lùi” (ratchet) là nguyên tắc mà các nước được quyền
đơn phương sửa đổi các nội dung đã bảo lưu theo hướng thuận lợi hơn nhưng khi đã
đưa ra rồi thì không được quyền rút lại nội dung đã được sửa đổi đó[12].
Cơ chế Standstill thường được áp dụng trong các khung pháp lý cũ về thương mại
dịch vụ như GATS và AFAS. Khi các FTA thế hệ mới xuất hiện thì bổ sung thêm cơ
chế Ratchet. Điển hình như trong CPTPP Điều 10.7.1(c) quy định rằng “Các điều
10.3 (Đối xử quốc gia), 10.4 (Đối xử tối huệ quốc), 10.5 (Tiếp cận thị trường)
và 10.6 (Hiện diện tại nước sở tại) không áp dụng đối với: … c) sửa đổi đối với
bất kỳ biện pháp không tương thích nào được dẫn chiếu trong đoạn (a) ở mức mà
sửa đổi đó không làm giảm sự tương thích của biện pháp với các điều 10.3 (Đối xử
quốc gia), 10.4 (Đối xử tối huệ quốc), 10.5 (Tiếp cận thị trường) và 10.6 (Hiện
diện tại nước sở tại)4 so với lúc trước khi sửa đổi”. Tuy nhiên trong CPTPP
thì có một quốc gia ngoại lệ đó là Việt Nam, theo đó Trong thời gian 3 năm kể từ
khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực, Việt Nam không phải tuân thủ nguyên tắc
ratchet. Đây là linh hoạt mà các nước CPTPP dành riêng cho Việt Nam[13].
2.2.
Nội luật hóa các cam kết về tự do hóa thương mại dịch vụ của Việt Nam
Đối với các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ trong các FTA thế hệ mới,
Việt Nam đưa ra các điều kiện có tính ràng buộc, hạn chế đối với các nhà cung
cấp dịch vụ nước ngoài ở các mức độ khác nhau.
Các điều kiện này bao gồm:
-
Hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ;
-
Hạn chế về tổng giá trị của các giao dịch hoặc tài sản;
-
Hạn chế về tổng số hoạt động dịch vụ hoặc số lượng dịch vụ cung cấp;
-
Hạn chế về số lượng lao động;
-
Hạn chế hình thức thành lập doanh nghiệp
(liên doanh hay 100% vốn nước ngoài…)
-
Hạn chế vốn góp của nước ngoài.
Có thể thấy rằng đối việc nội luật hóa các cam kết về thương mại dịch vụ trong
các FTA thế hệ mới, Pháp luật Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc sửa đổi pháp
luật để phù hợp với các cam kết đó. Các quy định trong Luật đầu tư 2020 khá mở
và linh hoạt, nhưng chính sự linh hoạt này có thể gây khó khăn đối với Việt Nam
khi thực hiện cam kết đối với từng ngành dịch vụ cụ thể. Vì các ngành dịch vụ có
tính chất đa dạng và phong phú nên Luật và các văn bản điều chỉnh cho từng ngành
có thể chưa thay đổi kịp để thích ứng với Luật đầu tư mới, sự chồng chéo và thay
đổi liên tục của các văn bản cũng là một khó khăn lớn đối với các nhà cung ứng
dịch vụ nước ngoài. Luật Đầu tư 2020 được áp dụng thống nhất cho các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài sẽ giúp Việt Nam thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia
(NT) và đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được đối xử bình đẳng như
đối với các nhà cung cấp dịch vụ nội địa. Mặc dù vậy, các nhà cung cấp dịch vụ
vẫn gặp một số hạn chế liên quan đến chính sách như là cách thức, cơ chế thực
thi cũng như giám sát thực thi chưa hiệu quả các chính sách đã được điều chỉnh
theo đúng cam kết. Thêm vào đó, vì tính chất đa dạng của dịch vụ nên với mỗi Bộ
ban ngành khác nhau phụ trách lĩnh vực dịch vụ khác nhau thì sự phối hợp giữa
các Bộ ban ngành để thực thi các cam kết cũng là một yếu tố quan trọng. Có thể
thấy được rằng tại Việt Nam chưa sự phối hợp chưa thật sự hiệu quả giữa các Bộ
ngành trong việc thực hiện chính sách; phương thức thông tin và tuyên truyền cho
doanh nghiệp về những cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại dịch vụ với
ASEAN còn chưa hiệu quả.
Đối
với việc thực thi các cam kết về mở cửa thị trường, các chính sách thực tế của
Việt Nam chưa đáp ứng được hoàn toàn những cam kết trong các FTA thế hệ mới.
Việc xây dựng Danh mục bảo lưu NCM trong các FTA thế hệ mới này là một thách
thức đối với Việt Nam trong tương lai gần.
Trước hết, việc liệt kê theo hướng bảo
lưu các phân ngành trong danh mục NCM và các ngành không nằm trong “Danh mục
được cam kết tự do hóa” tiềm ẩn rất nhiều rủi ro do việc bảo lưu có thể không
liệt kê được toàn bộ các ngành dịch vụ hiện có, hoặc sắp ra đời và có thể phát
sinh trong tương lai. Đặc biệt là đối với những ngành dịch vụ chứa nhiều yếu tố,
đặc trưng nhạy cảm, có độ rủi ro cao trong việc dẫn tới những bất ổn của thị
trường.
3.
Vai trò của các Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới trong thúc đẩy tự do hóa
thương mại dịch vụ
Các
hiệp định tự do hóa thương mại thế hệ mới có liên quan đến dịch vụ như CPTPP,
RCEP, và đặc biệt là ATISA sẽ từng bước thay thế có các FTA về dịch vụ cũ. Các
hiệp định mới sử dụng phương pháp tiếp cận chọn- bỏ, tuy nhiên vì tính chất mới
của các hiệp định nên sự hiệu quả của phương pháp tiếp cận mới vẫn chưa thể kiểm
chứng được. Măc dù vậy, không thể phủ nhận rằng với phương pháp tiếp cận mới và
mức độ cam kết sâu rộng hơn, các FTA thế hệ mới có ảnh hưởng lớn đến mức độ tự
do hóa thương mại khu vực ASEAN trong tương lai gần.
Có thể nhận thấy vai trò của các FTA thế hệ mới trên một số khía cạnh sau:
Một
là, trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, các vòng đám phán của WTO chưa có
bước đột phá nhất định, các FTA thế hệ mới xuất hiện là một giải pháp để thúc
đẩy tiến trình tự do hóa thương mại và đầu tư dịch vụ, với phương pháp tiếp cận
tự do hóa thương mại mới cùng những cam kết sâu rộng hơn. Hiện tại các quốc gia
thành viên của ASEAN không tự cắt giảm thuế, xóa bỏ các rào cản thương mại mà
chỉ thông qua các FTA mới này mới có thể xóa bỏ dần được các rào cản thương mại
dịch vụ thúc đẩy tự do hóa, góp phần vào quá
trình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia thành viên FTA. Có thể nói đây chính
là vai trò kinh tế của các FTA thế hệ mới.
Hai
là, các FTA cũ như AFAS chưa xử lý triệt để các rào cản nội địa trong các quốc
gia thành viên ASEAN. Phương pháp chọn – bỏ trong trong các FTA thế hệ mới sẽ là
công cụ để giải quyết vấn đề này, phương pháp tiếp cận mới này được đặt ra với
mục tiêu giảm dần đến xóa bỏ các rào cản pháp lý phân biệt đối xử, từ đó tạo ra
môi trường minh bạch hơn cho các nhà đầu tư, cung cấp dịch vụ khi tham gia vào
thị trường quốc tế. Với việc thiết lập danh sách biện pháp không tương tích,
cách tiếp cận này buộc các quốc gia thành viên phải minh bạch hóa hơn trong việc
đưa các ngành dịch vụ tiếp cận với thị trường nội địa.
Ba
là, bên cạnh việc thúc đẩy mạnh mẽ liên kết kinh tế và hội nhập, các FTA thế hệ
mới còn góp phần nâng cao chuẩn mực tự do hóa thương mại dịch vụ. Trong bối cảnh
hội nhập kinh tế, các FTA thế hệ mới đưa ra các yêu cầu, tiêu chuẩn cao hơn và
rộng hơn đối với dịch vụ. Vấn đề này được đặt ra để nhằm đảm bảo môi trường cạnh
tranh công bằng hơn giữa các quốc gia thành viên ASEAN trong quan hệ thương mại.
Thêm vào đó, việc đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn buộc các quốc gia thành viên
phải nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả sản xuất. Để thực hiện được điều
này thì các quốc gia thành viên ASEAN buộc phải đưa ra những chính sách đảm bảo
các tiêu chuẩn về người lao động và môi trường. Vấn đề này có ý nghĩa vô cùng
lớn đối với các quốc gia đang phát triển trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Bốn
là, các FTA thế hệ mới giúp các quốc gia thành viên ASEAN thiết lập môi trường
phát triển mới. Mức độ cam kết đối với các ngành, nghề hiện có sẽ được mở rộng
hơn, đồng thời các ngành nghề dịch vụ mới được mở ra cùng với các tiêu chuẩn
mới. Với việc ký kết các FTA thế hệ mới, môi trường phát triển mới được tạo lập
đặt yêu cầu cho các quốc gia thành viên đổi mới tư duy, định hình chiến lược
phát triển quốc gia thì mới có thể phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế mới
hiện tại.
Năm
là, các FTA thế hệ mới khi được ký kết bởi các quốc gia thành viên sẽ góp phần
vào củng cố và đảm bảo an ninh kinh tế, nâng cao vị thế và đảm bảo bình đẳng
giữa các quốc gia thành viên. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế để đảm bảo an ninh
kinh tế thì quốc gia thành viên không chỉ chú ý các điều kiện của riêng mình, mà
cần hài hòa, cùng hợp tác với các quốc gia thành viên khác. Nói cách khác, an
ninh kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa là an ninh tương tác.
Kết luận
Việt
Nam đã đạt được một chặng đường dài trong nỗ lực tự do hóa các ngành dịch vụ
trong khu vực. Kể từ khi các FTA thế hệ mới xuất hiện, lộ trình tự do hóa thương
mại dịch vụ của Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể. Những thay đổi đó được
thể hiện ở sự phát triển của vô số loại hình dịch vụ, sự đa dạng của các hệ
thống và tiêu chuẩn quy định, cũng như sự đa dạng của các cơ quan chính phủ, cơ
quan quản lý và các bên liên quan. Những thành tựu đạt được trên nhiều mặt được
nêu trong các thể hiện nỗ lực to lớn của Việt Nam trong tiến trình tự do hóa
thương mại dịch vụ nói riêng và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung.
Từ
những vai trò của các FTA thế hệ mới, có thể nhận thấy rằng sự xuất hiện của các
FTA này mặc dù mang lại nhiều cơ hội đối với Việt Nam tuy nhiên cũng tồn tại
nhiều thách thức. Những cơ hội bao gồm việc mở rộng các thị trường thương mại,
đầu tư, lao động,… và đi kèm đó là những thách thức liên quan đến gia tăng cạnh
tranh, tăng cường các chuẩn mực về thị trường, lao động. Các cơ hội và thách
thức đi đôi với nhau là động lực để các quốc gia thành viên hoàn thiện hệ thống
chính sách quốc gia, và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Các cơ hội và
thách thức đan xen và chuyển hóa nhau, chúng phụ thuộc vào trình độ phát triển,
sự năng động và chủ động hội nhập trong tham gia các FTA của Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO