URL: http://sotaythuky.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/96360474/96360500?pers_id=33814884&item_id=71795333&p_details=1
 
Kỳ họp 5/2014 của Hội đồng Thẩm phán và một số vấn đề nghiệp vụ (P1)
20/10/2014-08:21:00 AM
 
Trong tranh chấp tài sản, tài sản không thuộc về bên này thì có thể mặc nhiên quyết định của bên kia hay không?
Trong tranh chấp tài sản, tài sản không thuộc về bên này thì có thể mặc nhiên quyết định của bên kia hay không?

(Vụ án đòi nhà cho thuê giữa ông Diệp và bà Thơ tại Quận 3 – TP Hồ Chí Minh)

Các nguyên đơn là ông Hoàng Đình Diệp, bà Hoàng Thị Ích và chị Hoàng Thị Châu là ba trong số các người con của cụ Nguyễn Thị Hào (chết năm 2005). Các nguyên đơn trình bày:

Năm 1956 cụ Hào mua một phần diện tích đất thuộc khuôn viên, sân của căn nhà 436/11 Ter Lê Văn Duyệt của cụ Uông Thị Chỉnh. Việc mua bán chỉ lập giấy viết tay, nay đã bị thất lạc. Vì thế, năm 2002 cụ Chỉnh có lập giấy tái xác nhận là có bán căn nhà trên cho cụ Hào (có xác nhận của chính quyền địa phương).

Sau khi nhận chuyển nhượng, cụ Hào đã làm nhà tạm trên diện tích đất này và đó là căn nhà mang số 436/41/3 Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám), phường 11, quận 3 thành phố Hồ Chí Minh. Cụ Hào cho bà Nguyễn Thị Thơ thuê lại căn nhà tạm trên với giá 50 đồng (việc thuê chỉ nói miệng). Bà Thơ chỉ phải trả tiền nhà một thời gian, sau đó do thấy hoàn cảnh khó khăn nên cụ Hào không thu tiền nhà nữa. Từ năm 1970 đến khi cụ Hào mất, cụ Hào đòi lại nhà nhưng bà Thơ không trả. Nay, ông Diệp đại diện cho các thừa kế của cụ Hào yêu cầu Tòa án xem xét công nhận căn nhà số 436/41/3 Cách Mạng Tháng Tám thuộc quyền sở hữu của cụ Hào và buộc bà Thơ trả lại căn nhà nêu trên cho chị em ông.

Bà Thơ khai rằng: Căn nhà 436/41/3 là do bà thuê của một người già vào năm 1964, bà không biết tên gì, bà cụ đã chết từ lâu. Việc thuê nhà chỉ có bà và bà cụ biết, không có làm giấy tờ. Sau giải phóng, bà không đóng tiền thuê nhà cho ai nữa cho đến nay. Hàng năm bà vẫn đóng thuế nhà đất cho Nhà nước và tiến hành kê khai nhà đất vào các năm 1977, 1999. Bà cho rằng cụ Hào không phải chủ sở hữu nhà, căn nhà 436/11 Ter không phải là căn nhà 436/41/3 hiện nay gia đình bà đang ở. Bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không có trách nhiệm trả nhà cho những người thừa kế của cụ Hào.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1061/2010/DSST ngày 26/7/2010, TAND thành phố Hồ Chí Minh quyết định công nhận quyền sở hữu căn nhà số 436/41/3 Cách Mạng Tháng Tám cho bà Nguyễn Thị Hào; buộc bà Thơ trao trả ngôi nhà trong thời hạn 3 tháng. Bà Thơ kháng cáo. Bản án phúc thẩm số 100/2011/DSST ngày 18/4/2011 Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại TP. Hồ Chí Minh đã quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án phúc thẩm đã bị Chánh án TAND tối cao kháng nghị giám đốc thẩm.

Tại phiên họp ngày 21/5/2014 Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã quyết định hủy bản án phúc thẩm và hủy bản án sơ thẩm; giao cho TAND thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại. Quyết định của Hội đồng Thẩm phán có một số vấn đề pháp lý quan trọng sau:

Trung tâm Thông tin Tài nguyên Môi trường không có hồ sơ, thông tin về việc nhà 436/41/3 Cách mạng Tháng Tám trước đây mang số 436/41/3 Lê Văn Duyệt hay mang số 436/11 Lê Văn Duyệt. Mặt khác, tại đơn xin xác nhận ngày 06/8/2010 của bà Thơ, Ủy ban nhân dân phường 11, quận 3 xác nhận, “theo hiện trạng số nhà tại phường 11, quận 3, thì số nhà 436/11 Cách Mạng Tháng Tám và số 436/41/3 Cách Mạng Tháng Tám không phải là một”. Như vậy chưa có đủ cơ sở xác định nhà đất số 436/41/3 hiện nay bà Thơ đang sử dụng chính là nhà đất số 436/11 Ter Lê Văn Duyệt mà theo lời giấy xác nhận cụ Chỉnh bán cho cụ Hào.

Ngoài ra, có nhiều lời khai cho rằng nhà đất 436/41/3 có nguồn gốc của cố Nguyễn Thị Râm cho bà Thơ thuê nhà đất này theo như trình bày của bà Thơ tại đơn tường trình năm 1984. Với tình hình chứng cứ như trên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm công nhận cụ Hào có quyền sở hữu nhà  số 436/41/3, từ đó buộc bà Thơ trả lại căn nhà trên là chưa đủ căn cứ.

Cũng có ý kiến cho rằng Tòa án phải làm rõ nhà tranh chấp là của ai. Theo tố tụng dân sự thì người đưa ra yêu cầu có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp (Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự). Vì vậy, người đi đòi nhà thì phải xuất trình chứng cứ chứng minh họ là chủ sở hữu hoặc là người thừa kế, người được giao chiếm hữu. Không có đủ căn cứ chứng minh là chủ thì cần bác yêu cầu đòi nhà.

Có vấn đề đặt ra là nếu bị đơn không thừa nhận nhà là của nguyên đơn thì công nhận nhà của bị đơn hay không? Nếu bị đơn có yêu cầu công nhận nhà là của bị đơn thì đó là yêu cầu phản tố, Tòa án sẽ xem xét theo quy định về phản tố. Nếu bị đơn chỉ không thừa nhận nhà của nguyên đơn thì đó không phải yêu cầu phản tố, Tòa án chỉ xem xét trong phạm vi khởi kiện theo đơn khởi kiện quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự (chỉ chấp nhận hay bác yêu cầu đòi nhà).

Vấn đề pháp lý có thể rút ra là:

- Nguyên đơn khởi kiện đòi tài sản phải có nghĩa vụ chứng minh mình là chủ tài sản hoặc là người thừa kế hợp pháp, người chiếm hữu hợp pháp  của tài sản đó. Nếu không chứng minh được thì Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Trường hợp Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong tranh chấp sở hữu mà bị đơn không có yêu cầu phản tố công nhận tài sản thuộc về mình thì Tòa án không có quyền quyết định tài sản thuộc về ai. Do đó, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án chỉ được xem xét giải quyết trong phạm vi yêu cầu khởi kiện và yêu cầu phản tố của các đương sự.
Chu Minh - Nguyễn Tứ

In Trang | Đóng cửa sổ