URL: http://sotaythuky.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676686/27677461?pers_id=28346379&item_id=309069098&p_details=1
 
Chuyên đề yêu cầu áp dụng pháp luật về chia tài sản khi ly hôn
11/04/2024-10:33:00 PM
 

ThS. NCS. Nguyễn Hữu Hoàng



Đặt vấn đề

Phân chia tài sản khi ly hôn là một quy trình quan trọng bắt buộc cả hai bên vợ, chồng phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Quan hệ tài sản giữa vợ, chồng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân, tồn tại trong thời kỳ hôn nhân, không có tính đền bù ngang giá và không xác định được công sức đóng góp cụ thể của các bên nên khi xảy ra tranh chấp thì việc phân chia tài sản chung vợ, chồng là tương đối khó khăn, phức tạp, gây nhiều tranh cãi trong các vụ giải quyết ly hôn tại các cấp Tòa án. Chính vì vậy, cần phải có một số các yêu cầu trong áp dụng pháp luật về chia tài sản khi ly hôn.

1. Hoàn thiện chính sách pháp luật

Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình nói riêng; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp. 1

Đảm bảo và thực hiện thành công chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá cần thực hiện đồng bộ nhiều công việc từ hoàn thiện pháp luật; hoàn thiện mô hình hoạt động của Tòa án; đảm bảo hoạt động xét xử độc lập Tòa án; đảm bảo vai trò trung tâm của Tòa án trong chuỗi hoạt động tố tụng, Tư pháp; bảo đảm các điều kiện để hoạt động tranh tụng được phát huy; đề cao vai trò, vị trí của Luật sư; nâng cao chất lượng, đạo đức của nhân lực ngành Tư pháp,…

Để hoạt động tranh tụng đi vào thực chất, tạo sự đột phá có lẽ chúng ta cũng cần phải thay đổi một số thói quen như tâm lý “trọng chứng hơn trọng cung”. Theo quy định của pháp luật lời khai, lời trình bày của bị can, bị cáo tại giai đoạn điều tra, truy tố (được ghi vào Biên bản hỏi cung, Biên bản lấy lời khai…) hay lời trình bày tại phiên tòa (được ghi vào Biên bản phiên tòa…) đều là chứng cứ và có giá trị chứng minh. Nhưng thực tế, khi giải quyết các chủ thể trong đó có cả Luật sư thường coi trọng và đánh giá cao hơn giá trị của các tài liệu đọc được như Biên bản ghi lời khai, Biên bản hỏi cung... Lời khai, lời trình bày trực tiếp của bị cáo, nhân chứng, đương sự tại phiên tòa đôi khi bị đánh giá thấp hơn. Trong khi đó, bản chất tất cả các tài liệu này đều xuất phát từ chính lời trình bày của bị can, bị cáo, nhân chứng, đương sự trong vụ án. Thậm chí theo logic chung việc một người trực tiếp bày sự việc, trực tiếp nêu quan điểm, ý kiến của chính của họ tại phiên tòa sẽ chính xác, trung thực đúng với ý chí của họ hơn so với việc ý kiến, quan điểm, lời trình bày của họ được thể hiện gián tiếp qua trung gian, được người khác ghi nhận lại vào văn bản. Tại phiên tòa, cùng việc trực tiếp lắng nghe lời trình bày bằng lời, Hội đồng xét xử còn được quan sát, đánh giá tính chính xác trong thông tin được cung cấp qua các biểu cảm của người trình bày như nét mặt, cử chỉ, thái độ, ngữ điệu, chất giọng... từ đó đánh giá tính trung thực trong dữ liệu thông tin.

2. Ðổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại tòa án

Ðổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại tòa án. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện.2

Nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước nói chung, hoạt động tư pháp nói riêng là đặc tính của các nhà nước dân chủ, tiến bộ. Ở nước ta, bản chất dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tòa án không chỉ thể hiện ở việc các công chức tư pháp tận tụy, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mà còn thể hiện ở việc huy động quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử, góp phần thực thi và bảo vệ công lý.

Bằng kinh nghiệm, hiểu biết và kiến thức của mình, hội thẩm mang đến phiên tòa những quan niệm đạo đức chung của xã hội, sự nhận xét, đánh giá của nhân dân về hành vi phạm tội, tính chất của các tranh chấp theo lẽ phải và công bằng... Sự tham gia của hội thẩm góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, tăng thêm niềm tin cá nhân của thẩm phán vào việc đưa ra phán quyết giải quyết vụ án “thấu tình”, “đạt lý”, công bằng, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội. Bên cạnh đó, việc tham gia xét xử của hội thẩm còn làm cho các phiên tòa tranh tụng chất lượng hơn; thông qua phiên tòa người dân biết và hiểu được các quy định của pháp luật, quy tắc của cuộc sống, từ đó, có ý thức chấp hành pháp luật, tôn trọng quy tắc và đạo đức xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, hoạt động tư pháp thời gian qua cho thấy, các quy định của pháp luật hiện hành về cơ chế lựa chọn, vị trí, vai trò, thẩm quyền, tổ chức hoạt động của hội thẩm bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn phát triển đất nước.3

3. Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử

- Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng tòa án điện tử. 

Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp; mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử.

Đổi mới Tòa án nhân dân cấp tỉnh thành Toà án nhân dân phúc thẩm, Tòa án nhân dân cấp huyện thành Tòa án nhân dân sơ thẩm nhằm thể chế hóa nhiệm vụ “bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử” được đề ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW. Phù hợp với truyền thống tư pháp nước nhà khi Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập các Tòa án của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phù hợp với quy định của Hiến pháp “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt là thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của đảng “xây dựng Tòa án chuyên nghiệp”.  Các Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt được thành lập sẽ bảo đảm tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động; phát huy trình độ chuyên môn cao của Thẩm phán, Hội thẩm trong xét xử các vụ án đặc thù, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết loại việc này.

4. Hoàn thiện thể chế để viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp

Hoàn thiện thể chế để viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; hoàn thiện cơ chế tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, tăng cường kiểm soát bên trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo.

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cần khẩn trương xây dựng chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết số 27-NQ/TW về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”; trong đó có nhiệm vụ “Hoàn thiện thể chế để Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; hoàn thiện cơ chế tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, tăng cường kiểm soát việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".

Đi liền với đó là tăng cường hơn nữa vai trò, trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra ngay từ giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, thực hiện tốt các nguyên tắc tố tụng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ như nguyên tắc suy đoán vô tội, đảm bảo chặt chẽ, trọng chứng hơn trọng cung; không để oan sai, bỏ lọt tội phạm; vừa đảm bảo xử lý nghiêm đối tượng chủ mưu, vụ lợi, đồng thời đảm bảo tính nhân văn, thuyết phục.

Trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tố tụng để đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử, xử lý nghiêm các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực, nhất là các vụ án thuộc diện Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo. Cần tăng cường thực hiện việc thu hồi tài sản của Nhà nước bị chiếm đoạt, thiệt hại, thất thoát; hạn chế tối đa việc hình sự hóa những quan hệ dân sự, kinh tế; góp phần xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng, đổi mới, sáng tạo nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Ngành Kiểm sát nhân dân cũng cần tiếp tục chủ động phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với chính phủ, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Văn phòng Chủ tịch nước trong nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định về đặc xá; xét đơn xin ân giảm án tử hình; hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng tồn đọng hồ sơ xin ân giảm án tử hình hiện nay. Đây là những việc có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, cần quan tâm thực hiện cho tốt.

5. Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật

Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp đối với luật sư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành nghề luật sư. 

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, am hiểu pháp luật, giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Củng cố hội luật gia các cấp, nâng cao vai trò, trách nhiệm của thành viên hội luật gia trong thực hiện nhiệm vụ đúng quy định pháp luật.

Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước.4

Hoàn thiện thể chế pháp lý quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư đòi hỏi hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh Luật sư và hành nghề Luật sư. Hệ thống này bao gồm các quy phạm, chế định pháp luật chuyên ngành về Luật sư và hệ thống quy phạm, chế định pháp luật tố tụng tư pháp, hành chính - tư pháp liên quan đến Luật sư và hành nghề Luật sư. Cần xây dựng mới Luật Luật sư thay thế cho Luật Luật sư 2006 (được sửa đổi bổ sung năm 2012). Bởi lẽ Luật Luật sư hiện hành được ban hành trước khi Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật cơ bản điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến hành nghề Luật sư được ban hành nên một số quy định của Luật Luật sư chưa kịp thời đồng bộ, tương thích, phù hợp với những quy định của pháp luật có liên quan.

Thứ nhất, Luật Luật sư mới cần xác định đúng địa vị pháp lý, vị trí, vai trò của Luật sư, xác định khái niệm Luật sư là chức danh tư pháp độc lập, chức danh bổ trợ tư pháp trong hệ thống chức danh nghề luật Việt Nam. Định vị đúng vị trí pháp lý của Luật sư, xác định rõ mối quan hệ của Luật sư với các chủ thể khác trong hệ thống các chức danh tư pháp. Luật cần quy định rõ ràng, minh bạch quy trình trở thành Luật sư. Do Luật sư là chức danh tư pháp độc lập, bình đẳng với các chức danh tư pháp khác như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên nên việc gia nhập đội ngũ hành nghề Luật sư của các ứng viên dù được đào tạo ở đâu, tập sự ở cơ sở hành nghề nào đều phải vượt qua kỳ thi tuyển chọn tư pháp quốc gia mới được công nhận.

Xuất phát từ tính chất của nghề Luật sư, phải được đào tạo bài bản trước khi được cấp chứng chỉ hành nghề, nhằm bảo đảm chất lượng dịch vụ pháp lý cho khách hàng, Nhà nước và xã hội, Luật Luật sư cần quy định chặt chẽ để hạn chế tối đa các trường hợp được miễn đào tạo, giảm thời gian tập sự hành nghề.

Đối với các trường hợp được miễn đào tạo, miễn tập sự hành nghề, ứng viên muốn hành nghề Luật sư phải trải qua khóa bồi dưỡng ngắn hạn về kỹ năng và đạo đức ứng xử nghề nghiệp Luật sư là một điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư.

Thứ hai, Luật Luật sư cần quy định rõ về phạm vi và hình thức hành nghề Luật sư để bảo đảm đặc thù nghề nghiệp Luật sư và tương thích với Luật Doanh nghiệp trong bảo đảm quyền kinh doanh của công dân liên quan đến các thủ tục pháp lý nhưng không phải là Luật sư, không hành nghề Luật sư. Cần làm rõ những vấn đề gì mang tính đặc thù của nghề Luật sư thì quy định trong Luật Luật sư, những vấn đề khác liên quan đến hành nghề Luật sư nên áp dụng luật chung là Luật Doanh nghiệp.

Thứ ba, nguyên tắc kết hợp quản lý Nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư do Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) cần được sửa đổi, bổ sung, thay thế. Nguyên tắc này chưa phân định rõ ràng và có những điểm bất hợp lý về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý Nhà nước và của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư trong việc quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư, dẫn đến việc quy định chi tiết thi hành và trong thực tiễn thi hành gặp khó khăn vừa tạo ra khoảng trống pháp lý trong quản lý, hạn chế quyền khiếu kiện các hành vi, quyết định hành chính xâm phạm quyền tiếp cận nghề nghiệp, trở thành Luật sư và hành nghề Luật sư của công dân và của Luật sư. Luật Luật sư cần quy định rõ ràng hai nguyên tắc: nguyên tắc quản lý Nhà nước về Luật sư và hành nghề Luật sư áp dụng đối với hoạt động quản lý Nhà nước về Luật sư và nguyên tắc tự quản của Luật sư áp dụng trong hoạt động nghiệp vụ chuyên môn trong nội bộ tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư và tổ chức hành nghề Luật sư.

Thứ tư, Luật Luật sư cần tách bạch chức năng quản lý Nhà nước, thẩm quyền áp dụng pháp luật và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về Luật sư với chức năng tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư. Xác định hệ thống chế tài pháp lý, xử lý vi phạm pháp luật và giao cơ quan có thẩm quyền trong quản lý Nhà nước áp dụng đối với Luật sư trong Luật Luật sư và văn bản hướng dẫn thi hành. Trong trường hợp Luật sư vi phạm pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ sẽ bị các cơ quan quản lý Nhà nước xử lý hành chính (cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng/thu hồi chứng chỉ hành nghề Luật sư có thời hạn/không thời hạn). Luật sư sẽ có quyền để khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của Luật Khiếu nại và Luật Tố tụng hành chính.

Luật Luật sư cần trao quyền cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư ban hành và áp dụng hình thức kỷ luật đối với Luật sư. Các hình thức kỷ luật Luật sư bao gồm: khiển trách, cảnh cáo, tạm đình chỉ tư cách Luật sư có thời hạn, không thời hạn và xóa tên Luật sư trong danh sách Đoàn Luật sư. Trong trường hợp bị xử lý kỷ luật, Luật sư được quyền khiếu nại, việc giải quyết khiếu nại được quy định trong điều lệ hoặc quy chế nội bộ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư. Quyết định giải quyết của Chủ tịch Hội đồng Luật sư toàn quốc là quyết định cuối cùng. Thứ năm, Luật Luật sư cần quy định về hành nghề của tổ chức Luật sư nước ngoài cho đồng bộ, tương thích với pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư Việt Nam. Ngoài các quy định trong Chương VI về hành nghề của tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài, Luật sư nước ngoài tại Việt Nam, thì tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài, Luật sư nước ngoài hành nghề ở Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật Luật sư Việt Nam giống như các Luật sư Việt Nam, khi vi phạm pháp luật Luật sư, pháp luật Việt Nam hay vi phạm kỷ luật của Luật sư theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Thứ sáu, Luật Luật sư đã quy định tại Điều 91 về việc xử lý vi phạm đối với các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư, tuy nhiên cho đến nay chưa có cơ chế pháp lý để thực thi, bởi lẽ các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư chưa được quy định chế tài cụ thể để có cơ sở áp dụng. Ví dụ hành vi cản trở hoạt động hành nghề Luật sư: điều tra viên, thủ trưởng cơ quan điều tra chậm trễ, không cấp đăng ký người bào chữa cho bị can, bị cáo; tác động đến tinh thần, đe dọa để bị can, bị cáo viết giấy từ chối Luật sư trái với mong muốn của họ dẫn đến oan, sai, gây hậu quả nghiêm trọng…, nhưng đến nay chưa có trường hợp nào bị hình sự hóa, thậm chí chưa bị hành chính hóa và chưa có cơ chế để xử lý kỷ luật đối với hành vi của cán bộ tiến hành tố tụng vi phạm, cản trở hoạt động hành nghề hợp pháp của Luật sư. Luật Luật sư cần giao Chính phủ quy định cụ thể hệ thống chế tài hành chính để xử lý hành vi vi phạm cản trở hoạt động hành nghề của Luật sư; hoàn thiện hệ thống chế tài hình sự xử lý hành vi cản trở gây hậu quả nghiêm trọng đối với hoạt động hành nghề của Luật sư.

Thứ bảy, cần sửa đổi, bổ sung các luật có liên quan đến hành nghề Luật sư, trước hết là các luật về tố tụng để bảo đảm cho Luật sư tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đặc thù nghề nghiệp, cần xác định Luật sư không phải là chủ thể của tội phạm và được miễn truy tố đối với tội không tố giác tội phạm trong Bộ luật Hình sự. Nếu tố giác khách hàng, Luật sư sẽ không hoàn thành nhiệm vụ bào chữa, bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của khách hàng, trái với đạo lý. Đương nhiên khi Luật sư thực hiện nghĩa vụ tố giác sẽ bị khách hàng tẩy chay. Trong khi về pháp lý, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Luật sư chỉ có nghĩa vụ tố giác khi khách hàng đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, để ngăn ngừa đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, khủng bố, xâm phạm lợi ích công cộng. Lúc này Luật sư có quyền từ chối yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý của khách khàng và thực hiện trách nhiệm công dân. Cần sửa đổi Luật Doanh nghiệp theo hướng xác định dịch vụ pháp lý của Luật sư trong phạm vi hành nghề Luật sư là ngành, nghề hoạt động, kinh doanh có điều kiện phải thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Trong đó Luật Doanh nghiệp là luật chung điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp trong tất cả các ngành, nghề kinh doanh. Luật chuyên ngành trong trường hợp này là Luật Luật sư điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội. Tuy nhiên cần sửa đổi quy định tại Điều 4, Điều 22 và các quy định liên quan của Luật Luật sư nhằm làm rõ hơn khái niệm “dịch vụ pháp lý” của Luật sư trong hoạt động hành nghề Luật sư, xác định rõ chủ thể thực hiện là Luật sư và người có đủ điều thực hiện tư vấn pháp luật, để tránh hiểu nhầm là bất kỳ doanh nghiệp, cá nhân nào cũng có thể thực hiện “dịch vụ pháp lý”, “hành nghề Luật sư” mà không cần đáp ứng về tiêu chuẩn, điều kiện gì.

6. Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp

Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo cử nhân luật. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp. 

Xác định con người là yếu tố quyết định, công tác cán bộ là then chốt của then chốt”, cần tập trung tiếp tục sắp xếp cơ cấu tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phân công và sử dụng hợp lý biên chế cán bộ hiện có; tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ để nâng cao chất lượng hoạt động của ngành. Tăng cường vai trò, trách nhiệm nêu gương trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo; tiếp tục tổ chức, triển khai học tập và làm tốt.

Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Ðổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ thẩm phán.

Xét xử là công việc rất khó khăn, vất vả bởi đó là quá trình đi tìm sự thật thường được che giấu một cách tinh vi và chuyên nghiệp, cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều loại tranh chấp, vi phạm, tội phạm phi truyền thống với những thủ đoạn mới chưa từng có. Với trọng trách của người bảo vệ và thực thi công lý, thẩm phán thường xuyên phải đối mặt với thách thức, tiêu cực trong xã hội, rủi ro, nguy hiểm, thậm chí là không ít cám dỗ, mua chuộc vì mỗi phán quyết của thẩm phán tác động trực tiếp đến tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản và cả tính mạng con người. Nếu không rèn cho mình bản lĩnh vững vàng, sự liêm chính, trong sạch, thẳng thắn, trung thực, vô tư, khách quan thì thẩm phán sẽ không thể hoàn thành được trọng trách của mình.5

ThS. NCS. Nguyễn Hữu Hoàng, Giảng viên, Phòng Nghiên cứu Khoa học Toà án

1 Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới tại khoản 7 Mục IV quy định: “Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá”

2 Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới tại khoản 7 Mục IV quy định: “Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá”

3 PGS, TS. NGUYỄN HÒA BÌNH, Đổi mới và hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia hoạt động xét xử tại tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới, https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/doi-moi-va-hoan-thien-co-che-nhan-dan-tham-gia-hoat-dong-xet-xu-tai-toa-an-dap-ung-yeu-cau-cai-cach-tu-phap-trong-giai-doan-moi, truy cập ngày 01/01/2024

4 Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới tại khoản 7 Mục IV quy định: “Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá”

5 PGS, TS. NGUYỄN HÒA BÌNH, Đổi mới và hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia hoạt động xét xử tại tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới, https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/doi-moi-va-hoan-thien-co-che-nhan-dan-tham-gia-hoat-dong-xet-xu-tai-toa-an-dap-ung-yeu-cau-cai-cach-tu-phap-trong-giai-doan-moi, truy cập ngày 01/01/2024

7



In Trang | Đóng cửa sổ